Cây thuốc nam chữa đau lưng được ông cha ta sử dụng rất nhiều trong đông y. Thế nhưng nhiều quý vị chưa từng biết cây thuốc nam ấy là những cây thuốc nào, tính vị ra sao. Hôm nay nam dược sẽ đi một vòng trong 3000 cây thuốc để lọc ra top những cây thuốc trị đau lưng tốt nhất. Mời quý vị cùng theo dõi bài viết chi tiết bên dưới.

1. Cây Bí bái

Bái Bái – Acronychia pedunculata (L.) Miq. (A.laurifolia Blune), thuộc họ Cam – Rutaceae.

Mô tả:

Cây gỗ nhỏ thường xanh cao 5-10m. Cành già màu nâu đỏ, vỏ có mùi xoài. Lá mọc đối phiến hình trái xoan thuôn dài 5-15cm, rộng 2,5-6cm, có những điểm tuyến tiết tinh dầu; lá non có lông, lá già nhẵn; cuống dài phù ở hai đầu, cũng thơm mùi xoài. Cụm hoa hình ngù, mọc ở nách lá hay đầu cành. Hoa trắng xanh xanh, thơm, có 4 lá đài, 4 cánh hoa, 6 nhị và bầu 1 ô. Quả hạch hình cầu nạc, có múi, khi chín màu vàng nhạt hay trắng hồng, ngọt, thơm thơm, ăn được; hạt dài, cứng, đen. Ra hoa tháng 4-6; có quả tháng 6-8.

Bí bái chữa đau dạ dày!
Bí bái chữa đau dạ dày!

Bộ phận dùng:

Rễ, gỗ thân, lá, quả – Radix, Lignum, Folium et Fructus Acronychiae.

Nơi sống và thu hái:

Cây của Ðông Dương và Viễn Ðông, thường mọc ở trong rừng thứ sinh, rừng còi, ven rừng và đồi cây bụi vùng trung du và miền núi từ Hoà Bình, Vĩnh Phú, Hà Bắc đến các tỉnh phía Nam. Thu hái các bộ phận của cây quanh năm, thái phiến, phơi khô. Quả thu hái vào mùa thu – đông, đồ với nước nóng rồi phơi.

Thành phần hoá học:

Lá chứa 1,25% tinh dầu; còn có alcaloid acronycin.

Tính vị, tác dụng:

Bí bái có vị ngọt, thơm, hơi cay, tính bình. Vỏ đắng và chát. Rễ, gỗ, lá có tác dụng khư phong hoạt huyết, hành khí giảm đau. Quả kiện tỳ tiêu thực.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Lá non thường dùng làm rau gia vị.

Các bộ phận của cây được dùng trị:

1. Ðau thấp khớp, đau dạ dày, đau thoát vị;

2. Chán ăn, đầy bụng, khó tiêu;

3. Cảm mạo, ho;

4. Phù lôi. Liều dùng 10-15g, dạng thuốc sắc.

Dùng ngoài chữa ghẻ chốc, mụn nhọt, đòn ngã tổn thương, lấy vỏ thân, lá nấu nước cho đặc để tắm, xát. Nhân dân ta thường dùng lá sắc uống chữa đau dạ dày và các chứng sưng đau. Còn dùng lá sao vàng, nấu nước cho sản phụ uống thay chè giúp ăn ngon cơm và thông huyết ứ. Lại có tác dụng trị phù lỏi. Ở Inđônêxia (Java) vỏ thân được dùng trị lỵ và lợi tiểu. Lá non cũng dùng ăn. Ở Ấn Độ, rễ, chồi và quả dùng chế nước tắm kích thích. Nhựa của rễ cũng được dùng xoa kích thích trong bệnh thấp khớp.

Ðơn thuốc:

1. Chữa phong thấp, gối lưng đau mỏi, bị thương sưng đau: 15-20g rễ hay lõi gỗ Bí bái sắc uống hoặc tán bột uống. Cũng dùng lá tươi đắp chỗ đau.

2. Cảm sốt và ho; 20g lá Bí bái sắc uống.

3. Chữa ăn uống kém tiêu: 15g quả Bí bái sắc uống.

2. Cây Bời lời lá tròn

Bời lời lá tròn – Litsea rotundifolia (Wall. ex Nees) Hemsl. var. oblongifolia (Nees) Allen (Actinodaphne chinensis (Bl.) Nees), thuộc họ Long não – Lauraceae.

Mô tả:

Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ; nhánh không lông, lúc khô đen ở phần non, nâu ở phần già. Lá mọc so le, hình trái xoan ngược hay thuôn ngọn giáo dài 5-6 cm, rộng 2,5cm, thường thắt lại ở phía gốc, nhọn ở đầu, mặt trên nâu bóng, mặt dưới mốc mốc; gân phụ 6-7 đôi; cuống lá dài 5-6mm. Cụm hoa tán không cuống ở nách lá; lá bắc nhẵn; mỗi tán có 4 hoa dài 2mm; bao hoa 6 thuỳ có lông cả hai mặt; nhị 3, có cuống, bầu nhẵn. Quả hình cầu màu đen,to bằng hạt đậu Hà Lan. Hoa tháng 5.

Cây Bời lời lá tròn
Cây Bời lời lá tròn

Bộ phận dùng:

Rễ, lá – Radix et Folium Litseae Rotundifoliae.

Nơi sống và thu hái:

Loài của Việt Nam, Nam Trung Quốc. Cây gặp ở lùm bụi một số nơi thuộc các tỉnh Bắc Thái, Hải Hưng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An. Có thể thu hái rễ, lá quanh năm, rửa sạch, thái phiến, phơi trong râm để dùng.

Tính vị, tác dụng:

Vị cay, ngọt, tính ấm, có mùi thơm; có tác dụng khu phong trừ thấp, hành khí giảm đau.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Được dùng trị:

1. Viêm khớp do phong thấp, đòn ngã thương tích, lưng đau gối mỏi;

2. Bế kinh, đau bụng kinh;

3. Rối loạn tiêu hoá, đầy hơi, cảm mạo đau đầu. Liều dùng 20-40 g rễ, lá khô sắc uống hoặc ngâm rượu uống.

3. Cây Cẩu tích

Cẩu tích, Cây lông cu li – Cibotium barometz (L.) J. Sm., thuộc họ Cầu tích – Dicksoniaceae.

Mô tả:

Cây có thân thường yếu, nhưng cũng có thể cao 2,5-3m. Lá lớn có cuống dài 1-2m, màu nâu nâu, ở phía gốc có vẩy hình dải rất dài màu vàng và bóng phủ dày đặc. Phiến dài tới 3m, rộng 60-80cm. Các lá lông chim ở phía dưới hình trái xoan- ngọn giáo dài 30-60cm. Lá lông chim bậc hai hình dải – ngọn giáo, nhọn lại chia thành nhiều đoạn thuôn, hẹp; mặt trên lá màu lục sẫm, mặt dưới màu lục lơ; trục lá không lông; các gân của các lá chét bậc hai có lông len. Ổ túi bào tử 1 hay 2, có khi 3 hay 4 ở về mỗi bên của gân giữa bậc 3; các túi màu nâu nâu, có 2 môi không đều nhau; cái ở ngoài hình cầu, cái ở trong hẹp hơn, thuôn.

Cây Cẩu tích
Cây Cẩu tích

Bộ phận dùng:

Thân rễ – Rhizoma Cibotii, thường gọi là Cẩu tích, Lông phủ ngoài thân rễ cũng được dùng.

Nơi sống và thu hái:

Cây phân bố rất rộng rãi ở ven rừng phục hồi sau nương rẫy và trên các tràng cây bụi hoặc nơi đất ẩm gần bờ khe suối, rừng núi ở khắp các tỉnh từ Lào Cai. Hà Giang, qua Quảng Nam-Đà Nẵng đến Lâm Đồng. Thu hoạch thân rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa thu- đông, cắt bỏ rễ con và cuống lá, cạo hết lông vàng để riêng. Rễ củ đã cạo hết lông, rửa sạch, thái phiến hay cắt từng đoạn dài 4-10mm, phơi hay sấy khô. Cần bảo quản nơi khô ráo. Khi dùng tẩm dược liệu với rượu để một đêm rồi sao vàng.

Thành phần hóa học:

Thân rễ cẩu tích chứa tinh bột (30%) và aspidinol, lông vàng ỏ thân rễ có tanin và sắc tố. Tính vị, tác dụng: Cẩu tích có vị đắng ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ can thận, mạnh gân xương, trừ phong thấp. Người ta đã nghiên cứu tác dụng chống viêm, ức chế chủ yếu giai đoạn viêm cấp tính, cả tác dụng gây động dục kiểu oestrogen. Lông cẩu tích có tác dụng cầm máu có tính cơ học bằng cách hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu cục, làm cho máu chóng đông.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Cẩu tích dung chữa phong hàn, thấp tê đau lưng, nhức mỏi chân tay, khó cử động, đau dây thần kinh toạ, chứng đi tiểu són không cầm, di tinh, bạch đới.

Ngày dùng 10-20g dạng thuốc sắc. Lông vàng quanh thân rễ dùng đắp ngoài chữa các vết thương chảy máu.

Người ta thường để nguyên thân rễ với 4 gốc cuống lá tạo hình con vật 4 chân có lông vàng (Kim mao Cẩu tích) rồi phun rượu vào tạo ẩm cho lông mọc nhiều để lấy lông dùng cầm máu.

Hoặc lấy đoạn thân rễ có lông đem treo lên, thỉnh thoảng lại phun rượu để lông mọc tiếp.

Đơn thuốc:

1. Chữa phong thấp, chân tay tê bại không muốn cử động Cẩu tích 20g, Ngưu tất 8g, Mộc qua 12g, Tang chi 8g, Tùng tiết 4g, Tục đoan 8g, Đỗ trọng 8g, Tần giao 12g, Quế chi 4g, nước 600ml, sắc còn 250ml, chia 2 lần uống trong ngày.

2. Chữa thận hư, sống lưng đau mỏi, đái luôn, vãi đái, bạch đới, di tinh: Dùng Cẩu tích 15g, Thục địa 12g, Đỗ Trọng dây 10g, Dây tơ hồng (sao) 8g, Kim anh 8g, sắc uống.

3. Chữa phong thấp đau nhức khớp xương, tay chân yếu mỏi hoặc bại liệt co quắp: Dùng Cẩu tích 15g, Tục đoạn 12g, Cốt toái bổ 12g, Đương quy 10g, Xuyên khung 4g, Bạch chỉ 4g, sắc uống.

Ghi chú: Người thận hư mà có nhiệt, bí tiểu tiện hoặc nước tiểu vàng đỏ, không nên dùng.

4. Cúc lục lăng

Cúc lục lăng, Linh đan hôi – Laggera alata (DC.) Sch.-Bip. ex Oliv., thuộc họ Cúc – Astera- ceae.

Mô tả:

Cây thảo sống nhiều năm, cao 40-100cm. Thân mập, phần cành tới phần trên, có cánh suốt dọc thân. Lá thuôn dài đến 8cm, đầu tù, gốc thuôn dần, mép có răng nhỏ, có lông mịn sát và tuyến tiết. Chuỳ hoa ở ngọn các nhánh; hoa đầu cao 6-7mm, lá bắc nhiều hàng, nhọn. Quả bế cao 1mm, có lông mào trắng, dài 4-5mm. Ra hoa từ mùa thu đến đầu mùa xuân.

Cúc lục lăng
Cúc lục lăng

Bộ phận dùng:

Toàn cây – Herba Laggerae Alatae.

Nơi sống và thu hái:

Cây mọc dại trong các rừng thông, rừng thưa, các savan có ở các tỉnh vùng cao như Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh cho tới Ninh Thuận, Lâm Đồng. Thu hái cây vào mùa hạ, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô.

Tính vị, tác dụng:

Vị đắng và cay, tính ấm, có mùi thơm; có tác dụng tiêu thũng trừ độc, tán ứ, giảm đau.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Thường dùng trị

1. Cảm cúm, ho kéo dài;

2. Đau thấp khớp, đau lưng;

3. Viêm thận, phù thũng;

4. Vô kinh, đau bụng trước khi sinh. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị mụn nhọt, viêm mô tế bào, tràng nhạc, đau xương, bỏng, eczema, rắn cắn; lấy một lượng vừa đủ cây tươi giã đắp ngoài hoặc đun nước tắm rửa.

5. Cây Cù đèn

Cù đèn – Croton oblongifolius Roxb., thuộc họ Thầu dầu – Euphorbiaceae.

Mô tả:

Cây nhỡ cao 3-4m, có nhánh to, vặn, sần sùi, có lá ở ngọn. Lá mọc so le hoặc 3 cái một, khi rụng để lại những sẹo sít nhau hình bán cầu; phiến lá dài 9-10cm, rộng 4-5cm, nhạt màu ở cả hai mặt, mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông hình khiên khi còn non, rồi thì nhẵn, nhưng có những chấm đen, mép hơi có răng với một chấm tuyến ở mỗi răng. Hoa xếp 1-3 bông ở ngọn dài 15-30cm, ở gốc mỗi bông có hoa cái mọc thưa, ở ngọn có hoa đực mọc dầy. Hoa đực có 14-15 nhị; hoa cái với bầu có 6 núm nhuỵ. Quả nang, hình trứng ngược, cao 9mm, rộng 7-8mm. Hạt hình trứng, lồi hai mặt, màu nâu, hơi bóng (ảnh số 151).

Cây Cù đèn
Cây Cù đèn

Bộ phận dùng:

Vỏ, rễ, lá, quả, hạt – Cortex, Radix, Folium, Fructus et Semen Crotonis Oblongifolii.

Nơi sống và thu hái:

Cây của Đông Dương và Ấn Độ, mọc hoang phổ biến ở nhiều nơi. Cũng thường được trồng. Có thể thu hái rễ, vỏ và lá quanh năm. Dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Thành phần hoá học: Hạt chứa một chất dầu béo tương tự như dầu hạt Ba đậu.

Tính vị, tác dụng:

Rễ Cù đèn có vị hơi ngọt, tính ấm, có tác dụng thông kinh lạc, lợi nguyệt thuỷ, phá thấp trệ, tiêu khối tích, thư gân cốt, chấm dứt sự tê đau. Lá Cù đèn có tính kháng sinh, sát trùng. Vỏ, rễ, quả và hạt đều có tính xổ. Vỏ và rễ gây chuyển hoá. Hạt và dầu hạt có tính tẩy mạnh và xem như là có độc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Rễ được dùng chữa đau lưng, nhức xương thấp, bốn mùa cảm mạo, đau bụng.

Gỗ có khi được dùng thay rễ.

Là dùng đắp chữa rắn rết cắn.

Người ta dùng lá Cù đèn non phối hợp với lá Đại bi, Dầu mè và Tầm gửi nấu nước tắm ghẻ.

Buổi sáng, vừa ngủ dậy, lấy từng nắm lá thuốc đã nấu kỹ chà xát vào các nốt ghẻ. Phối hợp với các loại thuốc khác để nấu nước chữa bệnh về gan.

Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ rễ, quả và hạt làm thuốc trị rắn cắn. Vỏ dùng đắp ngoài bó trặc và dùng uống trong trị bệnh đau gan.

6. Cây Dóng Xanh

Dóng xanh, Thanh táo tuy, Thường sơn trắng – Justicia ventricosa Wall., thuộc họ Ô rô – Acanthaceae.

Mô tả:

Cây nhỏ có thể cao tới 2-3m; nhánh phình mạnh ở các đốt. Lá có cuống thon hay thuôn, thon hẹp ở gốc và nhọn ngắn lại ở đầu, dài 7-20cm, rộng 3-8cm, dai. Hoa trắng rồi vàng lục, chấm những điểm màu đỏ, xếp 4 dãy thành bông ở ngọn các nhánh. Quả nang cao 17mm. Ra hoa kết quả vào mùa xuân hè.

Cây Dóng Xanh
Cây Dóng Xanh

Bộ phận dùng:

Toàn cây và lá – Herba et Folium Justiuciae Ventricosae.

Nơi sống và thu hái:

Cây mọc rải rác ở chỗ ẩm, gần suối trong rừng khắp nước ta từ Cao Bằng, Bắc Thái, Ninh Bình, Quảng Trị cho tới Sông Bé. Còn phân bố ở các nước nhiệt đới Viễn đông. Cũng thường được trồng làm cây cảnh và làm thuốc. Thu hái lá và toàn cây quanh năm, dùng tươi hoặc rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô dùng dần.

Tính vị, tác dụng:

Vị cay, hơi chua, tính bình, có tác dụng hoạt huyết, khu ứ, trừ phong thấp.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Ở Trung Quốc, cây được dùng trị

1. Đòn ngã, gãy xương;

2. Phong thấp đau nhức xương, đau thần kinh ngang thắt lưng;

3. Viêm mủ da, apxe vú. Liều dùng 15- 30g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài giã đắp. Ở nước ta, lá còn được nấu xông dùng trị đau răng. Lá cũng dùng chữa rắn cắn.

Đơn thuốc:

1. Trị rắn cắn; dùng lá Dóng xanh 50g, giã nát, thêm nước gạn uống. Lá trầu không 10g, nấu nước, rửa sạch vết cắn. Vỏ cây Nóng 30g, giã nhỏ đắp xung quanh vết cắn.

2. Gãy xương: Dóng xanh, Thanh táo, Chua me đất, Xuyên tiêu, tất cả đều dùng tươi, mỗi vị 30g, nghiền nát thêm ít rượu vang đắp xung quanh vết thương, sau khi đã chỉnh lý lại tư thế của xương và có nẹp giữ xương. Hàng ngày thay thuốc.

3. Apxe vú: Dùng lá tươi và thân cây, giã ra với mật đường đỏ và bã rượu để đắp ngoài.

7. Ðảng sâm

Ðảng sâm, Sâm leo, Dùi gà – Codonopsis javanica (Blume) Hook f. (Campanumoea javaniea Blume), thuộc họ Hoa chuông – Campanulaceae.

Mô tả:

Cây thảo sống nhiều năm, thân leo dài độ 2-3m, phân nhánh nhiều, rễ phình thành củ hình trụ dài, phía dưới phân nhánh, màu vàng nhạt. Thân và củ có mủ trắng. Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục, dài 3-6cm, rộng 2,5-4,5cm, mềm, mỏng, màu xanh lá mạ, mặt dưới có lông nhung trắng, mép lá có răng cưa tù; cuống lá dài 3,5-7cm. Hoa hình chuông mọc đơn độc ở nách lá, đài có 5 thuỳ, gốc hơi dính, tràng hoa màu xanh lá mạ, đỉnh có 5 thuỳ. Quả nang có 5 cạnh, khi chín màu tím mang đài hoa 375
tồn tại. Hạt tròn nhỏ, màu nâu. Mùa hoa quả tháng 12-1.

Đảng sâm!
Đảng sâm!

Bộ phận dùng:

Củ – Radix Codonopsis javanicae, cũng dùng như củ loài Ðảng sâm Trung Quốc, lá có thể dùng ăn. Nơi sống và thu hái: Ðảng sâm phân bố ở nhiều nước Ðông nam á. Ở nước ta, Ðảng sâm mọc ở trong các chỗ trống, thường ở ven các rừng thứ sinh, rú bụi, có khi trong các trảng savan có ở độ cao 900-2.200m, thuộc các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoà Bình vào các tỉnh Tây Nguyên. Kontum, Lâm Ðồng (vùng Ðà Lạt). Cũng thường được trồng lấy củ làm thuốc, gieo trồng bằng hạt vào mùa xuân. Sau 3 năm có thu hoạch. Nhân dân thường vào đồi cỏ đào củ về dùng, hoặc người ta thu củ trồng vào mùa thu đông, rửa sạch cát bẩn, cắt bỏ đầu rễ và các rễ con, phơi nắng nhẹ hay sấy ở nhiệt độ thấp cho khô dần rồi làm cho rễ mềm, sau đó lại phơi hay sấy nhẹ đến thật khô. Khi dùng thái miếng, tẩm nước gừng sao qua.

Thành phần hoá học:

Lá Ðảng sâm non chứa nước 77,5%, protid 4,2%, glucid 13,1%, xơ 3,3%, caroten 3,6mg%, vitamin C 85,5mg%. Sơ bộ thấy trong rễ cây có đường, chất béo; không có saponin. Còn có tinh dầu, glucosid sentellarin và vết alcaloid.

Tính vị, tác dụng:

Ðảng sâm có vị ngọt, tính bình; có tác dụng bổ tỳ vị, ích khí, sinh tân dịch, giải khát.

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

Quả Ðảng sâm ăn được, rễ củ có thể ăn sống. Ngọn và lá non có thể dùng xào hay nấu canh ăn. Củ thường được dùng làm thuốc như Ðảng sâm Trung Quốc để chữa cơ thể suy nhược, mỏi mệt ăn không ngon, đại tiện lỏng, phế hư, phiền khát, thiếu máu, vàng da, bệnh bạch huyết, viêm thượng thận, nước tiểu có albumin, chân phù đau. Còn dùng làm thuốc bổ dạ dày, chữa ho, tiêu đờm, lợi tiểu. Liều dùng 6-12g cho tới 20-40g, dạng thuốc sắc, viên hoàn hay bột. Thường phối hợp với các vị thuốc bổ khác.

Ðơn thuốc:

1. Bài thuốc bồi dưỡng cơ thể, thận suy, đau lưng mỏi gối, đái dắt: Dùng Ðảng sâm 20g, Tắc kè 5g, Huyết giác 1g, Trần bì 1g, Tiểu hồi 0,5g, rượu 40o 250ml, đường đủ ngọt. Các vị cắt nhỏ ngâm rượu độ một tháng. Mỗi lần uống 30ml, ngày 1-2 lần (Theo Dược liệu Việt Nam).

2. Chữa người già hay ốm lâu suy yếu, hoặc làm việc quá độ, ngồi đứng lâu nóng nhiều, mệt hơi háo sức, tim nhảy không đều, thở yếu ngắn hơi, mệt nhọc không muốn nói, chỉ thích nằm, suốt lưng đau ê ẩm, tay chân rũ mỏi, đi lại hoạt động hạn chế: Dùng Ðảng sâm 40g, Long nhãn, Ðương quy, Ngưu tất, Mạch môn đều 12 g sắc uống ngày một thang. Hoặc thêm sâm tốt 4-8g uống riêng, nếu bệnh nặng nguy cấp (theo Lê Trần Ðức).

3. Ho nhiều đờm, nước tiểu có albumin: Dùng Ðảng sâm 6-12g (tới 30g), nước 750ml, sắc còn 250ml, chia 2-3 lần uống trong ngày. 4. Da vàng (hay viêm gan vàng da): Dùng Ðảng sâm 12g, Nhân trần 30g, Hạ khô thảo 12g, Mã đề 12g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 2-3 lần uống trong ngày.

 

 

 

Note: Trên đây là 6 cây thuốc nam trị đau nhức xương khớp, đau lưng mà nam dược thống kê, quý vị có thể tham khảo, hỏi ý kiến chuyên gia trước khi sử dụng.